MỘT SỐ KIẾN THỨC SINH HỌC CƠ BẢN
VỀ MỘT SỐ GIỐNG LOÀI CHIM YẾN.
*********
Để bắt đầu nghiên cứu nuôi yến lấy tổ, chúng ta cần có những hiểu biết cơ bản về một số loài chim (tư liệu tổng hợp cung cấp cho người quan tâm đến nghề nuôi yến) thuộc 02 họ có hình thái và đặc trung gần giống với loài yến tổ trắng ăn được này, đó là:
1. Họ Nhạn Hirundinidae
Tiếng Anh: Swallows và Martins
Gồm các loài có cánh dài, nhọn, gần như thẳng nhưng ngắn và rộng hơn; bay lượn trên trờ ờ tầm thấp và bay chậm hơn so với các loài chim yến. Bọn nhạn bay lượn có lúc với đôi cánh khép đóng một nửa, không giống chim yến luôn bay lượn với cánh như lưỡi liềm dang rộng hết cỡ. Chúng có chân khoẻ mạnh, có thể đâu xuống trên cây, có thói quen đậu trên dây điện, cần ăngten, giây phơi; chân có ba ngón phía trước, một ngón phía sau; lông nói chung có màu xanh dương ngả sang màu đen; tổ làm từ bùn, đất sét hoặc cỏ cây. Ăn côn trùng trong khi bay và cũng đậu trên mặt đất để bắt côn trùng.
Trên thế giới có 76 loài nhạn (N. Nugroho, 2000), trong đó có một số loài tìm thấy ở vùng Đông Nam Á. Ở Việt nam có 11 loài nhạn (Võ Quý, Nguyễn Cử, 1999). Trong đó 04 loài là nhạn bụng trắng, nhạn bụng xám, nhạn nâu xám, nhạn hông tráng Á Châu đã được mô tả, tình trạng phân bố, hiện trạng và nơi ở (Nguyễn Cử, Lê Trọng Trải, Karen Philipps, 2005), có những loài phân bổ nhiều ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ (hình 1). Hầu hết là chim di cư cũng có loài sống định cư.
2. Họ Yến Apodidae
Tiếng Anh: Swifts và Swiftlets (yến và yến nhỏ).
Tại Việt Nam đã tìm thấy 09 loài yến (Võ Quý – Nguyễn Cử, 1999).
Chim yến và chim nhạn (chim én) thường bị lẫn lộn vì chúng đều là những loài chim bay lượn, thích bay lượn trên bầu trời để thăm dò thám thính ở những khoảng cách khá xa và đều ăn các côn trùng bay trong không trung, cánh dài giống hình lưỡi liềm. Chim yến thuộc họ Apodidae (theo tiếng La Tinh nghĩa là “không chân”), có đặc trưng là chân không phát triển, yếu ớt không thể đậu được trên dây diện nhưng có khả năng bay cao và có thể bay lượn liên tục trong không trung suốt cả ngày. Trong khi bay cánh của nó đập nhanh để đạt tốc độ cao, thỉnh thoảng lao xuống lướt nhanh và dài, chỉ bắt và ăn côn trùng trong khi bay.
Tổ của một số loài trong họ này chứa rêu, cỏ, lông, lá cây và một vài vật liệu khác, được gắn kết bằng nước bọt; xây dựng ở chỗ khá sáng, gần miệng hang, vách tường đá hoặc dưới mái ngói các toà nhà. Có loài yến xây tổ củ yếu bằng lông gắn với một ít nước bọ thường gọi là yến tổ đen. Cũng có loài chỉ làm tổ ở chỗ tối, tường hang đá dọc bờ biển và trong các toà nhà. Tổ trắng bằng nước bọt đông cứng lại, có giá trị dùng làm súp yến, được gọi với tên chung là loài yến trắng ăn được (white edible-nest swiftlets). Bọn yến này có cánh dài hẹp uốn cong và đuôi lõm mức vừa phải, có thể bay liên tục 40 giờ không nghỉ, tốc độ bay đạt tới 80-100 km/giờ. Chúng chỉ đu bám trên tổ hoặc trên các ván tổ bằng các móng sắc nhọn.
Họ yến có 04 giống (genus) thường gặp. Gồm:
2.1 Giống Hyrundapus (Needletails)
Trong giống này có 03 loài phân bố ở Việt Nam là yến đuôi cứng lớn (Hirundapus giganteus). Yến đuôi nhọn họng trắng hoặc đuôi cứng họng trắng (Hirundapus caudacuta), yến đuôi nhọn lưng bạc hoặc đuôi cứng lưng bạc (Hirundapus cochinchinensis). Hai loài sau có tư liệu về mô tả, phân bố, tình trạng và nơi ở (Võ Quý, Nguyễn Cử, 1999; Nguyễn Cử, Lê Trọng Trải, Karen Phillipps, 2005). Ba loài yến này cơ thể khá lớn, thân dài 18-24cm (E. Nugroho, 2000).
2.2 Giống Apus/ Cypciurus (Swifts). Ở VIệT NAM hay gặp các loài (Nguyễn Cử el al., 2005):
• Yến hông trắng (Apus pacificus, tiếng anh: Fork-tailed Swiff hoặc White-rumped Swift) 17-19cm, có vùng hông trắng với nét đặc trưng khác với yến cằm trắng là cánh dài và đuôi chẽ đôi sâu, bay thong thả hơn. Phân bổ khắp cả nước, có khả năng sống định cư, làm tổ tập đoàn từ tháng 4-7.
• Yến cằm trắng (Apus affinis, House Swiff), là loài yến nâu hơi đen, có cằm và hông trắng, kích thước khá nhỏ, 14-15cm (sải cánh 35 cm), đuôi chẻ nhẹ không sâu và hình vuông khi xoè ra, phân bổ ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Sống tập đoàn, định cư, gặp phổ biến, kiếm ăn trên các vùng đất trống thoáng, thường làm tổ dưới mái nhà, mái ngói, các khe lam thông gió của các nhà cao tầng trong thành phố. Gặp rất nhiều ở TP.HCM, Đà Lạt, các thành phố miền Trung và vùng Nam Bộ. Khi xác định địa điểm xây nhà người nuôi yến cần xem vùng đó có yến tổ trắng ăn được không, cần phân biệt sự khác nhau của loài chim yến cằm trắng và loài yến cho tổ ăn được.
• Yến cọ Châu Á (Cypriurus parvus, Asian palm-Swift), 11cm. Phần trên lưng nâu khói hơi đen, cánh và đuôi đen với ánh bóng xanh lục nhẹ, đuôi chẻ đôi sâu. Phần dưới màu nâu khói, cổ hơi nhạt hơn. Bay trên các bụi cây thoáng, gần những cây cọ ở trong thành phố.
2.3 Giống Collocallia (Non-echolocating Swiftlets – yến nhỏ không có âm dội).
Bọn này thích làm tổ ở nơi sáng hơn, không có khả năng dò đường trong bóng tối. Theo Somadikarta và Sudaryanti (1989) thì Indonesia có 14 loài chim thuộc giống Collocalia. Nhìn chung, người ta căn cứ chủ yếu vào kích thước cơ thể, màu lông, vật chất sử dụng làm tổ để phân biệt các loài chim yến. Một số loài dưới đây đã được Tim Penulis (1996) mô tả:
• Collocalia esculenta (yến bụng trắng, tiếng anh White-bellied Swiftlets/Glossy Swiftlets, tiếng Indonesia gọi là yến sapi). Phân bố nhiều ở Malaysia, Philippines, Indonesia, 10cm.
• Collocalia linchi (yến bụng trắng, tiếng anh Cave Swiftlets, tiếng Indonesia là Sriti hoặc Seriti) phân bố nhiều Java-Indonesia, 10cm.
• Collocalia gigas (yến lớn, tên la tinh Hydrochous gigas, tiếng anh Giant Swiftlets), 16cm.
• Collocalia brevirostris (yến núi, Himalayan Swiftlet), 14cm.
• Collocalia vanikorensis (yến tổ rêu, Mossy-nest Swiftlet), 12cm.
• Collocalia fuciphaga (yến tổ trắng ăn được). Hiện nay người ta xếp loại này vào giống Aerodramus.
• Collocalia maxima (yến xiêm còn gọi là yến tổ đen). Hiện nay người ta xếp loại này vào giống Aerodramus.
• Yến bụng trắng (Collocadia esculenta/linchi).
* Loài yến bụng trắng C. esculenta:
Lông lưng đen phớt xanh dương, lông ngực phớt màu cam tối (màu vàng bí ngô), phần lông bụng trắng hơn, đuôi chẻ đôi không sâu. Mắt nâu tối, mỏ đen, chân đen. Giọng hót ríu rít và cao. Đây là loại chim yến nhỏ nhất trong giống yến, có chiều dài cơ thể trung bình khoảng 10cm. Chim sống cả trên vùng cao nguyên, thích đồng cỏ, rừng cây rộng và thoáng. Loài chim này hay bay thành nhóm nhưng không xếp thứ tự. Chim không bay xa, thường bay thấp hoặc lượn vòng tròn gần trên mặt đất, hoặc mắt nước để tắm và uống nước. Khi tìm kiếm thức ăn thường kêu hót ríu rít dưới các cây lớn và nhiều côn trùng. Hình dạng tổ không đều đặn, được làm từ rêu, cỏ và nước bọt để kết dính tổ (5-15%), người ta cũng lấy các sợi giống như chất gelatin này để ăn nhưng giá bán thấp (www.goldemest.com). Tổ làm ở các khe đá, góc khe núi. Chỉ đẻ 02 quả trứng, màu trắng và hầu như hình oval. Chim làm tổ không phụ thuộc vào mùa ghép đôi, mà có thể làm tổ kéo dài trong năm. Thời gian làm tổ khá dài, thường phải 60-70 ngày. Trong một số tài liệu của Indonesia đây là loài để dụ chim yến hàng, nhưng theo phân tích ở tư liệu của Tim Penulis (1996) loài dùng để dụ chim yến hàng là loài C. linchi. Cho đến hiện nay trong nhiều tài liệu vẫn dùng cả hai tên la tinh (Collocalia esculenta/ linchi) để chỉ loài yến bụng trắng mà người Indonesia và Malaysia sử dụng để ấp hộ trứng và dụ chim yến vào nhà.
Loài này phân bố nhiều ở châu á, Himalaya, Trung Quốc, Papua New Guinea, Đông Nam Á, Australia, Java, Bali, Malaysia.
* Loài yến bụng trắng C. linchi:
Tại Indonesia người ta đã tìm ra bí quyết nuôi chim yến trong nhà bằng cách nương tựa vào một loài chim mà người Indonesia (Indo) gọi là chim sriti hay seriti. Con chim sriti này cũng làm tổ dưới mái nhà và tổ của nó có thể dùng để ấp nở trứng yến, có tên la tinh Collocalia linchi (theo Tim Penulis PS, 1996). Dạng chim con của nó hầu như giống chim yến sapi (C.esculenta). Nhưng lông phân bố trên lưng của cơ thể C.linchi màu đen phớt xanh kục và không có các lông nhỏ ở trên ngón chân cái. Trong khi lông trên cơ thể của chim C.esculenta màu đen phớt xanh dương và trên ngón chân cái có lông nhỏ.
Ở Bắc Kalimantan và Benunnungan Bukit Barisan, loài chim C.linchi sống cùng chỗ với loài C.esculenta. Ở đảo Java và Bali, loài C.linchi kiếm mồi cả ở các vùng thấp đến đỉnh núi có độ cao 3000m so với mặt biển. Loài này hay bay lượn gần nhà và thích làm tổ ở trong nhà dưới mái nhà, nhất là ở vùng Sukabumi. Tổ của nó hình cái bát không đều đặn, tổ được kết bện chặt bằng cỏ nhỏ và nước bọt, kích thước tổ 65,5x45mm, có thể sử dụng để ấp trứng chim yến hàng.
• Yến lớn (C.gigas) là loài chim có cơ thể lớn so với các loài yến nhỏ khác (Swiftlets). Kích thước trung bình của cơ thể khoảng 16cm. Lông chim màu đen, phía dưới màu nâu tối. Lông đuôi chẽ đôi rõ. Chim thường chỉ đẻ 1 quả trứng, trứng trắng và hình dạng gần như oval. Vào tháng 11-12 yến lớn thường bước vào mùa làm tổ.
Phân bố nhiều ở Malaysia, Sumatera, Kalimantan và Java, thường thấy ở các vùng núi cao rừng rậm.
• Yến núi (C.brevirostris), lông chim màu đen, đuôi màu xám đen. Lông đuôi chẽ đôi sâu, chân hơi có chút lông hoặc không. Cơ thể hơi lớn, chiều dài trung bình đạt 14cm. Loài này bay nhanh, thường ghép thành nhóm, hướng đến các vùng có đỉnh núi cao. Ăn các côn trùng nhỏ và cả các côn trùng bay. Tổ của nó làm trong các khe đá, nơi có dấu vết núi lửa và ở các đỉnh núi. Bởi vì tổ của nó làm từ cỏ và chỉ trộn rất ít hoặc không có nước bọt nên loại tổ yến này không thể ăn. Chim có mùq vụ ghép đôi và thường đẻ 2 quả trứng.
Loài chim này thường gặp ở Himalaya, Trung Quốc, Đông Nam Á, Phi líppines, Andaman, Sumatera, Java.
• Yến tổ rêu (C.vanikorensis), lông chim màu nâu ngã sang màu đen, lông đuôi tối hơn. Đuôi cũng chỉ hơi lõm vào. Giọng hót ríu rít và cao. Kích thước cơ thể nhỏ, trọng lượng 11 gam chiều dài cơ thể trung bình khoảng 12 cm, sải cánh 27 cm.
Chim bay mạnh và xa, đôi lúc cũng bay lượn xoay tròn và là thấp xuống gần mặt đất để tìm các côn trùng nhỏ. Tổ đẹp với bề mặt mềm. Rêu tảo được dùng để phủ và bệ kết thêm cho đến khi tổ làm xong, nên được gọi là “yến tổ rêu”. Chỉ đẻ một quả trứng, mùa đẻ từ giữa tháng giêng đến tháng bảy, ấp trứng 12 ngày.
Yến tổ rêu thấy nhiều ở Sumarera, Kalimanta, Java và các vùng tây Thái Bình Dương.
Tổ chim yến núiu, yến lớn, yến tổ rêu, yến sapi C.eschlenta và cả tổ yến sriti C.linchi đều không thể ăn được, riêng tổ của loài yến xiêm C.maxima thì có thể ăn được nhưng phải nhặt hết lông.
2.4 Giống Aerodeamus (Echolocating Swifilets-yến nhỏ có âm dội).
Hiện nay nhiều ác giả nhất trí xếp các loài chim yến có thể dò tìm đường trong bóng tối, sống và làm tổ ở nơi có cường độ ánh sáng mờ tối đến tối (Medway et al.1977) vào giống Aerodramus*. Giống này có nhiều loài, trong đó một số loài có chung đặc điểm là cho tổ ăn được.
3. Các loài yến cho tổ ăn được:
Trên thế giới có 03 loài (species) cho tổ ăn được.
Yến tổ trắng ăn được (Aerodramus fuciphagus, White-nest Swiftlet, Edible-nest Swiftlet), tên tiếng Việt-Yến lông xám (Võ Quý, Nguyễn Cử, 1999).
Yến tổ đen còn gọi là Yến xiêm (A.maximus, Black-nest Swiftlet), tổ yến chứa 80-90% lông, muốn sử dụng phải nhặt hết lông.
Yến Ấn Độ (Aerodramus unicolor, Idian Swiftlet), chỉ có ở ấn Độ và Srilanca, ít thu hoạch để bán, kích thước nhỏ (11 gam), hông đồng màu với lưng và đuôi chỉ hơi lõm.
Do sự phân bố địa lý khác nhau trong quá trình tiến hoá tự nhiên, loài chim cho tổ trắng ăn được (A.fuciphagus) cũng có một số sai dị nhỏ, nên người ta lại chia thành một số phân loài (subspecies):Aerodramus fuciphagus fuciphagus (phân bố ở Indonesia). Aerodramus fuciphagus amechanus (phân bố ở Malaysia). Aerodramus fuciphagus germani**(phân bố ở Việt Nam- tên gọi là yến hông xám hay yến hàng). Trong một số tư liệu trước đây người ta xếp phân loài này thành 1 loài với tên A.germani hoặc Germanicus’s Swiftlet. Tư liệu chính thức cho thấy, phân loài yến sống ở Thái Lan chủ yếu là Aerodramus fuciphagus germani, chúng cũng sống cả trong nhà và trong hang động. Chim yến sống trong chùa Wat Chong Lom tại tỉnh Samut Sakhon là phân loài A.fuciphagus germani.
Các nghiên cứu mới nhất của 3 phòng thí nghiệm sinh học ở Mỹ (J.Jordan Price, Kevin P.Johnson anh Dal H.Clayton,2004)về DNA chiết ra từ cơ và máu của 38 loài và phân loài yến (Swifts)và yến nhỏ (Swiftets) cho thấy, sự sai dị truyền (genetic divergence) của 2 phân loài A.f.vestitus và A.f.germani khoảng 1,8%, còng trong cùng một phân loài thì sai khác ít hơn khoang,5%. Tác giả kết luận đây là nhóm chim khó phân loại nhất.
Ngoài ra cần chú ý đến tư liệu “CITES và các loài yến Đông Nam Á” (Kenneh Er.,1996), trong đó cho rằng loài Collocalia fuciphaga (hiện nay thường gọi là Aerodramus fuciphagus) có 10 tên đồng nghĩa (synonyms) đó là Collocalia fuciphaga fuciphaga, C.fuciphaga vestita, C.fuciphaga amechana, C.fancica vestita, C.fuciphaga micans, C.fuciphaga inexpectata. . .
Chim yến sống trong nhà ở Việt Nam thuộc phân loài nào còn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Cần có thời gian để trả lời câu hỏi phân loài yến A.germani sống ở các đảo của ta có vào sống trong nhà như Thái Lan hay không. Thiết nghĩ đối với người sản xuất không nhất thiết đi sâu vào hướng này và nên dùng tên gọi đã được nhiều nước trên thế giới và quanh vùng chấp nhận đó là loài tổ trắng ăn được (White-nest Swiftlet, edible-nest swiftlet) và dùng tên phân loại đến loài là A.fuciphagus.
4. Tư liệu về phân bố của loài và phân loài yến tổ trắng
Chúng phân bố ở vùng Đông Nam Á là chính, nhiều nhất ở Idonesia, tiếp đến là ở Thái Lan, Malaysia, Việt Nam . . .
Idonesia:Chủ yếu là phân loài A.fuciphagus, ngoài ra còn có micams, vestitus.
Thái Lan: Có cả phân loài A.f.germani và loài A.maximus, khai thác tổ để bán từ thế kỷ 18, do kết quả của quá trình khai thác, nhiều trứng và chim con bị chết nên chim đã bỏ hoang nhiều hang động. Sản lượng yến hang động bị giảm sút, ngày nay người ta phát triển nghề nuôi yến trong nhà nên sản lượng tăng lên nhanh chóng.
Malaysia: Có cả 2 phân loài là A.f.amechnus và A.f.germani (phân bố ở vùng Peninsula), và loài A.maximus.
Philippines: Chỉ thấy phân loài A.f.germani.
Singapore: Một số tư liệu ghi nhận là có phân loài A.f.germani nhưng rất ít? Trong khi đó loài Collocalia esculenta/linchi lại khá phát triển.
Trung Quốc: Theo nhiều tài liệu trước đây thì tại hang Nanluo ở đảo Daizhou (thuộc Hải Nam) có 200 tổ yến thuộc loài A.fuciphagus, vào năm 1991 chỉ còn 15 tổ, và đợt khảo sát 2004 chỉ còn 02 tổ , vì vậy hiện nay người ta đang có các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt.
Việt Nam: Tài liệu của CITES (Kenneth Er., 1996) cho biết ở Việt Nam có cả C.fuciphagus và C.germani. Theo tác giả Nguyễn Quang Phách (1999)vĩ độ cao nhất có chim làm tổ là trong một hang động ở tỉnh Quãng Bình.
Cambodia, Myanmar, Laos, Brunei cũng thấy có phân bố loài yến Aerodramus fuciphagus. Ấn Độ và Sri Lanka chỉ có yến C.unicolor.
* Loài yến cho tổ trắng ăn được A.fuciphagus
Là loài chim sản xuất ra tổ yến dùng làm thực phẩm bổ dưỡng, có giá trị dinh dưỡng cao, tổ màu trắng nặng 5-15gr, cũng có tổ màu vàng và đỏ. Màu sắc khác nhau của tổ yến còn chưa có những giải thích đầy đủ, nhiều người nuôi yến nhất trí điều này có liên quan đến các yếu tố như nhiệt độ, độ ẩm, mức độ ammonia của một chỗ nào đó trong hang yến hoặc nhà yến, hoặc đến chủng loại côn trùng trong một vùng đặc trưng nào đó (http://www.goldennest.com) và cũng có liên quan đến các loại thức ăn khác nhau mà chủ yếu là sự khác nhau về chất khoáng trong thức ăn của chim yến (http://www.EnaturalHeealthCenter.com). Hiện nay, ít khi phát hiện thấy tổ yến vàng và đỏ trong hang động. Trong lúc đó, loại tổ này nuôi trong nhà (house red nest và house yellow nest) loại chào bán khá phổ biến trên thị trường Malaysia và Thái Lan với giá chỉ cao hơn khoảng 30-35% so với tổ trắng. Vậy có phải đã có kỹ thuật sản xuất tổ yến đỏ nuôi trong nhà hay không?
Chiều dài trung bình của cơ thể khoảng 12cm(10-16cm); phân loài A.f.fuciphagus ở Indonesia có trọng lượng từ 12,4-15,0g, trung bình 13,2g (Tim Penulis, 1996). Lông chim phân bố trên lưng màu nâu phớt đen, ở dưới màu xám hoặc nâu. Hông có vệt nâu xám. Lông đuôi có chẻ đôi không sâu. Màu mắt nâu tối, mỏ đen, chân đen. Tiếng hót ríu rít và cao. Có khả năng phát âm thanh dò đường trong hang tối (âm dội)với năng lượng âm thanh 2-8 kHz (J.Jordan Price et al.,2004). Chúng phát ra một kiểu tiếng kêu “cạch, cạch” tai người có thể nghe được, để tạo ra âm dội lại, nhờ đó chúng cho phép chúng bay hoàn toàn trong tối. Chim có đôi cánh khá cứng cáp, và có thể bay lượn xa tìm mồi.
Khi tìm kiếm thức ăn ở những nơi khang hiếm, do mật độ côn trùng bay trong không khó giảm dần theo độ cao chim thường bay vòng quanh chỗ đó và là xuống thấp. Chim cũng kiếm mồi ở những nơi có nhiều cây cao, trong đó có các côn trùng nhỏ và ở độ cao dưới 30cm. Nhìn chung không thể phân biệt với yến tổ đen và yến Himalayan khi chúng bay trong không trung, ngoại trừ ở vùng có yến làm tổ. Cũng có thể thấy thỉnh thoảng chim bay là vào trong nước, đó là để tắm và uống nước rồi lại bay lên, chúng uống nước trong khi bay. Trong tự nhiên tổ nằm trong các lỗ hỏng, khe hở của các tảng đá vôi, hoặc trong các hang đá có vắch thẳng đứng trên các đảo và ven bờ biển. Tổ hình chén trà bổ đôi, được chế tạo từ nước bọt của chim. Các sợi gêlatin này là một loại glycoprotein được tiết ra rừ tuyến nước bọt dưới lưỡi, sau khi ra không khí thì đông cứng lại. Trứng màu trắng dễ vỡ, thường chỉ đẻ 02 quả, kích thước khoảng 14x22mm.
Ở Việt Nam, phân loại yến A.f.germani có trọng lượng cơ thể khoảng 12-18gr, trung bình 14,5gr (Phach N.Q., Yen V.Q., Jean-Francois VOISIN,2002) làm tổ lần đầu kéo dài 4 tháng, bắt đầu khoảng tháng 12 đến tháng 1, kết thúc làm tổ vào khoảng cuối tháng 3, tuỳ địa phương và điều kiện khí hậu từng năm. Chim bắt đầu đẻ trứng vào giữa và cuối tháng 3 đến giữa tháng 5 (tuỳ vùng), có 70% chim tập trung đẻ vào và giữa tháng 4. Nếu bị khai thác lấy tổ chim sẽ tiếp tục làm tổ đến khoảng tháng 5-6, còn nếu tổ không bị lấy đi thì chúng sẽ đẻ lại lần 2 sau khi chim non rời tổ được 5-40 ngày; có 30% số chim đẻ lại trong vòng 7-10 ngày. Thời gian ấp trứng là 23-30 ngày, trung bình 25-2. Chim non rời tổ sau khi nở 40-45 ngày. Thức ăn của chim yến hàng ngày chủ yếu là côn trùng có kích thước nhỏ bay trong không khí: ong kiến, mối cánh , ruồi muỗi, bọ rầy, các loại cánh cứng, nhện, chuồn chuồn kim . . . Chim non ăn bọ rầy (nâu, xanh)- chiếm 50% và ruồi muỗi chiếm 20%.
Trong thức ăn của chim bố mẹ và chim trưởng thành thì kiến thuộc bộ cánh màng(Hymenoptera), ruồi nhỏ thuộc bộ 2 cánh(Diptera), và mối thuộc bộ cánh đều(Isoptera) chiếm tỷ lệ cao hơn cả. Vào mùa mưa tỷ lệ mối trong ruột là 100%( Nguyễn Quang Phách, 1993).
Loài này sinh sống nhiều từ vĩ độ 10oS đến 20oN và kinh độ 95o đến 115o đông, chủ yếu tập trung ở vùng Đông Nam Á, Philippines, Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Indonesia (Kalimantan, Sumatera, Java, Bli. . . .), Cambodia.
Ở Việt Nam, theo tư liệu cũ chim yến hàng có phân bố ở vịnh Hạ Long. Các điều tra của Nguyễn Quang Phách (1999) cũng cho biết chim yến đã làm tổ tại các đảo ở Quãng Bình, Quãng Nam (Cù Lao Chàm-9 hang yến), Quãng Ngãi (mũi Sa Huỳnh), Bình Định (bán bảo Phương Mai-17 hang yến), Khánh Hoà (12 đảo-hơn 30 hang), Phan Rang (mũi Đá Vách), Côn Đảo (10 đảo), Kiên Giang (khoảng 4-5 đảo).
* Loài yến xiêm A.maximus cũng hay làm tổ chung với loài yến hàng, chiều dài trung bình cơ thể là 12,5 cm (số liệu Indo.). Lông lưng màu nâu phớt đen, lông ngực màu xám đen. Với lông đuôi màu nâu phớt cam. Đuôi cũng hơi chẽ đôi. Loài yến này chân có lông phẳng, mắt nâu đậm, mỏ đen, chân đen. Tổ chim màu đen vì được làm từ lông đen và nước bọt của chim yến kết lại. Tổ yến đen có tới 80-90% là lông và 10-20% là nước bọt, cũng có tổ chứa khá nhiều nước bọt đạt tỷ lệ đến 45-55% (E.Nugroho, 2000; Hai Kuan & Jannette Lee, 2007). Một kilogam tổ yến đen chỉ có giá trị bằng 17-22% tổ yến trắng, sau khi nhặt hết lông ra, tổ chim yến có thể ăn được. Chất lượng tổ tất nhiên là thấp hơn so với tổ yến hàng. Chim cũng ăn các côn trùng nhỏ và chủ yếu là các côn trùng bay. Chim thích làm tổ trong các khe đá vôi.
Người ta thấy mùa vụ ghép đôi cũng giống chim yến hàng. Trứng màu trắng, thường chỉ đẻ một quả. Giống như chim yến hàng, loài yến xiêm cũng dễ nuôi hơn những loài yến khác.
Loại này thường thấy ven bờ biển, làm tổ trong các khe núi đá vôi ở Indonesia (Klimantan), Hymalaya, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Cambodia.
Việt Nam cũng có loài yến xiêm, chúng hay cùng làm tổ với yến hàng ở một số đảo vùng Khánh Hoà. Nhưng yến xiêm ở đây có số lượng quá ít, khoảng 90 đôi (186 con), trọng lượng cơ thể từ 12-17gr.
5. Một số đặc điểm sinh học của chim Yến
5.1. Đời sống tự nhiên của loài chim yến tổ trắng
Loài chim này hay sống quần đàn, thích làm tổ từng cặp riêng lẻ, thích sống ở chỗ gần nước (sông, hồ, biển), có đồng ruộng, rừng cây thấp và ít nhất các khu rừng rậm. Chim yến là loài chim bay lượn cao, nhưng ít khi chúng bay xa đến độ cao 1.500 m để kiếm mồi (tư liệu Inđo). Theo những điều tra của Khánh Hoà, chim yến hàng của Việt Nam có thể lên đến Lâm Đồng, Phan Rang để kiếm ăn (Nguyễn Quang Phách, Hồ Thế An và CS., 1999). Bình thường chim kiếm ăn ở khoảng cách xa hang động hoặc nhà của chúng 25km (E. Nugroho, 2000).
5.1.1 Vùng kiếm ăn của chim - môi trường sống vĩ mô (macrohabitat)
Là môi trường sống thích hợp để chim kiếm mồi, là vùng có đu thức ăn cho chim yến trong suốt cả năm, vùng chim có thể bắt các loại côn trùng bay suốt từ sáng đến chiều tối. Đặc điểm của một vùng kiếm ăn lý tưởng là có khoảng 50% diện tích cây thấp dưới 1 m như đồng lúa, có gianh, bụi cây; 30% diện tích cây cao trên 5 m như cây keo dậu: Leucaena glauea), sung, vườn, cọ, rừng,… và 20% mặt nước thoáng (E. Nugroho, 2000). Người ta quan sát thấy, chim rời tổ khoảng 5h sáng, sau đó kiếm ăn trên vùng cây thấp từ 6h00 đến 10h00; trên vùng cây cao từ 10h00 đến 14h00 và có mắt nước vào lúc 14h00 – 16h00. Buổi chiuề, vào khoảng 16h00 từng đàn chim yến thường bay đến các khúc sông hoặc các đầm phá nước ngọt, trong mát và sạch để tắm và uống nước (Hình 4,5,6), từ 16h30 đến 17h chim bắt đầu bay về tổ và thường trở về tổ vào lúc 18h00, cũng có thể muộn hơn cho đến 19h (tuỳ mùa).
Tuy nhiên, tuỳ theo đặc điểm thời tiết của mùa và ngày, ta có thể thấy sự xuất hiện của chim yến và thời gian kiếm ăn ở các vùng đã chỉ ra ở trên có những sự sai khác nhất định. Trong ngày dâm mát, độ ẩm cao và gần mùa vụ sinh sản, thời gian đàn chim đi kiếm mỗi tren các vùng cây thấp kép dài hơn. Trong ngày nóng, chói chang mặt trời, chim bay ở độ cao hơn, bởi sự phân bố nhiệt độ theo chiều thẳng đứng giảm theo dần khi lên cao (cứ lên cao 100 m giảm 0.60C) không kể những ngày nghịch nhiệt. Mùa đông chim ra đi kiếm ăn muộn và trở về sớm, mùa hè ra đi sớm và trở về muộn hơn.
Vào mùa sinh sản vùng kiếm ăn của chim gần nơi làm tổ, chim bay ra bay vào khỏi nơi ở nhiều lần để đưa thức ăn về nuôi con. Tại Bình Định, mặc dù các hang động nằm trong dãy núi đá voi gần đất liền nhưng xung quanh mọc nhiều đám cỏ tai tượng vúi bụi rễ phát triển và thường xuyên ẩm ướt (Hình 7) là điều kiện để côn trùng phát triển. Ta quan sát thấy vào mùa sinh sản nhiều chim không bay xa mà kiếm ăn gần thậm chí loanh quanh hang động để quay về tổ mớm mồi cho con.
Vì chim yêu cầu môi trường sống vĩ mô như vậy nên các nhà chim cũ hay ở gần các khúc sông chảy ra biển và thường ở phía Bắc các dòng sông. Điều nay có liên quan đến gió và luồng chuyển động của không khí từ phía Nam, Đông Nam và Tây Nam thổi qua dòng sông.
5.1.2 Nơi chim làm tổ - môi trường sống vi mô (microhabitat) là nơi chim trở về để ngủ nghỉ, đu bám, làm tổ, đẻ trứng và nuôi con (Hình 8a,b).
Một nơi cho phép chim bay ra bay vào dễ dàng, làm tổ dễ dàng yên tĩnh, che khuất để chim cẩm thấy an toàn và ít sự đe doạ của động vật gây hại.
Nơi có điều kiệm nhiệt độ 24-310C (tốt nhất là 27-290C), ẩm độ trong phạm vị 70-95%, lý tưởng là 80-90%, ánh sáng từ tối đến mờ tối 0-2 Lux (Nugroho E., Whendrato I., 1994) có đối lưu không khí, thoáng mát với bầu không khí trong sạch. Điều kiện ẩm độ nhiệt độ thích hợp này là điều kiện cần và đủ bảo đảm cho sinh sản của chim.
Điều tra môi trường sống vi mô tự nhiên của chim cho thấy đặc điểm cấu trúc hang và điều kiện khí hậu (microclimate) của hang có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh sản, số lượng tổ, mật độ tổ (tổ/m2) và diện tích có khả năng làm tổ của chim yến.
Dưới đây là một số tư liệu về môi trường vi mô tự nhiên trong hang động của Việt nam (Nguyễn Quang Phách, 1993; Hồ Thế Ân và CS., 1999; Phach N.Q. el al 2002) giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể hơn khi xây dựng nhà yến.
* Về hướng cửa và đặc điểm cấu trúc hang:
Tại Quảng Nam, trong số 5 hang sản lượng tốt có đặc điểm cấu trúc là: 4 hang đáy đá, 1 hang đáy nước; 3 hang có cửa mở ra phía Đông (60%), 1 hang về hướng Nam (20%) và 1 hang có 2 cửa – Đông Bắc và tây nam (20%), đó là hang Khô – hang cho sản lượng cao nhất.
Tại Khánh Hoà (KH), trong số 26 hang được đưa ra phân tích (Quan N.Q. el al. 2002): 15 hang đáy đá (58%), 11 hang đáy nước (42%); 8 hang có cửa hướng đông (31%), 9 hang hướng Bắc (35%); 6 hang hướng Nam (23%), 3 hang có 2-3 cửa (11%); trong đó hang Trống có 03 cửa: Bắc, Nam và đỉnh hang, là hang có sản lượng cao nhất. Trong khi đó hang Niah ở Sarawark (rất nổi tiếng ở Malaysia) có cửa chính mở ra hướng Tây, Đông và Nam. Nếu xem xét toàn bộ 50 hang yến ở Khánh Hoà (Hồ Thế Ân, Nguyễn Quang Phách, 1999), tính bao gồm tất cả hang sản lượng dưới 2kg/năm, thì có 27 hang đáy nước, 23 hang đáy đá; 54% số hang có cửa hướng Đông, 20% hướng Bắc, 14% hướng Nam, 8% vừa có cửa Bắc và Nam và 4% cửa hướng Tây (2 hang hướng Tây này sản lượng rất thấp).
* Về diện tích làm tổ và dung tích hang.
Thống kê số lượng và mật độ của 5 hang đáy khô ở Khánh Hoà cho thấy: mật độ tổ (số tổ/m2) của vùng chim làm tổ biến động từ 29,2 đến 37,8 tổ/m2, trong đó 3 hang dung tích lớn (75-350m3) có diện tích làm tổ từ 70 đến 99m2, số tổ mỗi hang từ 2386 đến 3765. So sánh với 6 hang đáy nước, mật độ tổ biến động từ 37,5 đến 114,3 tổ/m2; 4 hang có dung tích lớn (275-2240m3) có diện tích làm tổ từ 73 đến 696 m2 và số tổ mỗi hang từ 6663 deb518 79.597 tổ. Nếu so sánh ở cùng một dung tích hang, thì sản lượng của hang đáy nước luông cao hơn hang đáy đá, ngoài ra dung tích hang lớn cho sản lượng cao hơn. Chim thích các hang rộng, sâu và cao có dung tích trung bình khoảng 300-450m3, đặc biệt hang Trống có chiều dài đến 70m, dung tích hang 2240m3 có sản lượng tổ lên đến 79.579 tổ, diện tích làm tổ 696m2 (Phách N.Q. el al 2002).
* Về diện tích cửa ra vào của yến ở hang động:
Thống kê 5 hang khô (KH) với diện tích cửa ra vào khoảng 2-14m2, chưa thấy rõ có mối quan hệ với sản lượng tổ; tuy nhiên, ở 6 hang đáy nước với cửa khoảng 30-137m2, thì có thể hiện mối tỷ lệ thuận với sản lượng. Trong nuôi yến, các nhà có cửa rộng tốt hơn cửa hẹp vì chim sẽ ra vào dễ dàng, nhưng điều quan trọng là ánh sáng trong nhà phải đảm bảo mờ tối và không để thất thoát tổ do không an toàn.
* Về ẩm độ, nhiệt độ, tốc độ gió, hàm lượng O2 , NH3 ,… của không khí trong hang, nhận thấy các thông số này có mối quan hệ với hướng cửa và cấu trúc hang.
Nhiệt độ không khí trong hang có quan hệ với nhiệt độ bên ngoài, thấp hơn vào tháng Giêng đến tháng Ba, cao hơn từ tháng Tư đến tháng Tám hoặc tháng Chín sau đó là thấp xuống. Nhiệt độ trong hang đáy nước luôn thấp hơn 1-2 độ so với bên ngoài. Biến thiên nhiệt độ suốt cả năm ở trong hang đáy đá, đáy nước và không khí do gần cửa hang (ở hang cửa quay về phía bắc) là từ 23-300C).
Ẩm độ trong các hang đáy nước luôn đạt trên 90-95% và ổn định suốt cả năm, chỉ thay đổi 1-2%. Ở các hang có ẩm độ thường xuyên lên đến 95-100% thì tổ vàng (Hang Cả - Quảng Nam). Trong lúc đó ẩm độ ở các hang khô đáy đá thay đổi theo mùa, theo hướng cửa và luôn thấp hơn, chỉ đạt 60-85%, thấp nhất vào tháng 4 đến tháng 10 ở các hang có cửa mở ra hướng bắc và tháng 12 đến tháng 3 ở các hang mở ra hướng nam. Sự thay đổi đó có quan hệ với hướng gió, vì các hang quay về hướng bắc sẽ chịu ảnh hưởng của gió đông bắc vào tháng 12 đến tháng 3, còn các hang có cửa quay về hướng nam và đông thì sẽ đón nhận gió đông và tây nam vào tháng 4 đến tháng 10. Luồng gió này mang theo hơi ẩm ướt vào trong hang, thậm chí những hang đó chỉ có một nữa.các hang đáy nước thì ngược lại có cửa rộng, và không khí luôn chuyển động trong hang. Nên số lượng hang đáy nước tuy chiếm khoảng 54%ở Khánh Hoà, nhưng sản lượng chiếm đến 86,3%> hiện nay trên thực tế điều tra ở miền trung một số nhà có 2 cửa hướng tây nam và bắc chim vào làm tổ khá tốt, điều này còn phụ thuộc vào đường chim bay về.
Nồng độ của một vài yếu tố hóa học trong không khí của một vài hang yến điển hình (Phach et al.,2002) cho thấy: hang trống (hòn ngoại)là hang đáy nước, dung tích hang lớn, cửa mở rộng, nồng độ O2 cao đạt 19% tương đương với chuẩn oxy không khí trong tự nhiên là 20,9%; NH3 thấp hơn 0,03mg/m3. Trong lúc đó 2 hang Chữ Thập và Nha là hang khô đáy đá, dung tích hang hẹp, cửa mở hẹp, nồng độ oxy thấp hơn, là 14-15%, NH3 cao hơn 0,8-0,95mg/m3 (chuẩn KK-0,076 đến 0,76mg/m3). Nồng độ CO2 tương đương nhau ở cả 3 hang khoảng 1356-1370mg/m3 (chuẩn KK-360ppm).
* Về cường độ ánh sáng:
Quan sát điều kiện làm tổ trong một số hang và cả trong nhà của chim yến sống ở Việt Nam cho nhận xét, yêu cầu về cường độ chiếu sáng không thật chặt chẽ như ta tưởng, có những hang rất sáng (hang tò vò – QN) và những vùng trong nhà yến rất sáng chim vẫn làm tổ (hình 9). Tất nhiên, cường độ ánh sáng phải nhỏ hơn 2 lux là tốt nhất (Nugroho E., Whendrato I., 1994). Sở dĩ chim làm tổ ở những nơi cao và tối như vậy vì ở đấy nhiệt độ thấp hơn và với ánh sáng này giúp chúng (nhất là chim non) tránh được địch hại.
Tóm lại, chim rất thích trú trong các hang động có diện tích rộng, độ ẩm cao; với các vùng hang hẹp 2-3cm nhưng có chiều cao trên 5m thì sản lượng cũng khá tốt (Hình 8a). Điều kiện ẩm độ nhiệt độ thích hợp nói như ở trên là điều kiện cần và đủ bảo đảm cho sinh sản của chim.
Mặc dù sản lượng tuỳ thuộc môi trường sống vi mô, tuỳ thuộc hướng cửa, vào dung tích không gian của hang, vào điều kiện bầu không khí trong hang và vào luồng gió vừa và đủ khoảng 1m/giây (không quá nhiều gió, luồng gió không được lớn hơn 5m/giây),… Nhưng trên thực tế, Quảng nam có 09 hang yến chỉ hang Khô có sản lượng chiếm đến 60-70% tổng sản lượng của tỉnh; Bình Định có 17 hang yến chỉ có hang Cả có sản lượng cao nhất; Khánh Hoà với 50 hang có tổ yến chỉ có hang Trống (hòn Ngoại) có số lượng tổ lên đến 79.579 tổ (1998) (Phach N.Q. el al., 2002),… chứng tỏ nhiều nét sinh sống của chim yến chưa nắm bắt được hết. Trong nuôi yến cũng có hiện tượng nhiều nhà yến gần nhau nhưng sản lượng rất chênh lệch.
Chim yến hàng làm tổ trong thời gian lúc trở về nhà đến nửa đem. Nó không làm một mình mà cả con đực và con cái cùng lmà. Công việc xây dựng tổ tiến hành mỗi ngày, kéo dài trong khoảng 40-80 ngày. Nếu thức ăn (côn trùng nhiều hoặc vào mùa đẻ trức thì thời gian này chỉ 40 ngày, thậm chí chỉ 30 ngày, còn nếu chưa vào mùa đẻ trứng và bị ảnh hưởng của nhiều tác nhân thì thời gian làm tổ có thể kéo dài gấp đôi.
Chu kỳ sống của chim yến: từ khi mới nở cho đến khi tập bay và rời tổ khoảng 45 ngày; từ khi bay được đến khi sống thành đôi khoảng 30 ngày. Thành thục và đẻ trứng lần đầu khoảng 8 tháng tuổi. Thời gian chim bắt đầu làm tổ cho đến khi làm tổ xong là khoảng 40 ngày nếu vào mùa mưa, mùa có nhiều côn trùng, còn nếu vào mùa khô ráo thì thời gian này mất 80 ngày. Thời gian từ khi làm tổ xong đến khi đẻ trứng là 8 ngày. Bắt cặp giao phối khoảng 5-8 ngày. Trứng được ấp và nở ra thành chim con trong khoảng 20-21 ngày, rồi lại bắt đầu một chu kỳ mới.
5.2. Sinh trưởng
Chim non nở ra trụi lông, màu hồng nhạt da nhăn nheo, trọng lượng cơ thể khoảng 1,47 – 1,82 gam, mắt khép kín (hình 12a,b). Chúng nằm giống ở trong tư thế của phôi, nghĩa là đầu chim non uốn cong xuống dưới bụng. Khoảng một giờ sau sẽ có tư thế bình thường, đầu đưa ra phía trước chân thu xuống dưới bụng. Chim nằm ép xuống tổ. Một giờ sau khi nở, chim có phản xạ tự nhiên là há miệng nhận mồi nếu chúng ta đút cho chúng ăn.
Hai ba ngày tuổi năng 2,27-2,32 gam, cánh dài 8,5-9 mm, nếu dược nuôi bình thường trong tuần đầu trung bình mỗi ngày tăng 13-14% (tư liệu nhà yến KH – theo dõi đo đạt liên tục trên từng cá thể). Từ ngày thứ 9 đến ngày 14, tốc độ tăng trưởng về trọng lượng - % (Pgn – Pgn-1)/Pgn-1 của chim con giảm dần, chỉ còn 5-10%; từ ngày 14 đến ngày 20 chim tăng trọng chậm còn 1,5-5,7%; từ ngày 20 đến ngày 30 chim hầu như không tăng trọng, đạt trọng lượng từ 14-14,7gam; từ ngày 35 đến ngày 43 trọng lượng hơi giảm còn 13,7-14g; từ ngày tuổi 37 đến ngày 45, trọng lượng chim khoảng 13,7-13,8g (dựa trên bảng tư liệu của Phach N.Q. el al. 2002).
Sau 5-6 ngày tuổi đâm lông tơ, lông mọc ít và chậm, khoảng 12-15 ngày chim có lông đen và giữ ít lông như vậy đến khoảng 20 ngày tuổi. Lông mọc khá đều ở 30-40 ngày tuổi, tiếp đến khoảng 35-37 ngày tuổi chim sẽ đeo trên mép tổ, thả người ra ngoài và sau đó bắt đầu tập bay (hình 13a,b và hình 14a,b).
Bảng 1. Một số số đo của chim rơi ở đảo (30-40 ngày tuổi)
Số đo
(cm) No
1
2
3
4
5
6
L cánh 8,9 8,9 9,2 9,5 11,2 11,5
L sải cánh 19,2 19,2 20,5 25,5 26,5
L thân 9,5 9,2 9,5 10,2 11,5 11
Lộ cánh/ so đuôi * 0,5 0,8 0,95 1,2 2,3 2,6
Dài đuôi 2,7 2,7 3,0 3,2 3,4 3,5
P thân (g) 14 14 14 11 14 13
Ngày tuổi ** 30 30 28-32 28-32 35 40
* Mút cánh lộ ra so với đuôi ** Theo quan sát của cán bộ kỹ thuật đội yến Hội An.
Các số đo trong bảng 1 cho thấy khi chim đạt đến 30-40 ngày tuổi, một số đặc điểm hình thái đã hoàn thiện: trọng lượng cơ thể (13-14gam), bề rộng của cánh 3,7-3,8cm, đai hông màu xám rộng 1-1,5cm. Riêng chiều dài cánh, sải cánh, dài thân và dài đuôi vẫn tiếp túc sinh trưởng. Đặc biệt khoảng cách chên lệch giữa mút cánh so với đuôi tăng nhanh nhất, từ 0.5cm lên 2.6cm, chứng tỏ cánh tiếp tục sinh trưởng nhanh trong một thời gian sau đó. Khi chim sắp bay chim thường bỏ ăn một vài ngày, trọng lượng có hơi giảm xuống tạo điều kiện cho chim bay lên dễ dàng.
Chim non sau 45 ngày thì bay được, trong nhà yến người ta nuôi chim 60 ngày thậm chí chỉ thả chim sau 03 tháng tuổi (có thể sự sinh trưởng của chim trong nhà yến có phần chậm hơn).
Tuổi thỏ 12-15 năm (có tư liệu từ 8 đến 20 năm), tỷ lệ chết mỗi năm trong nhà yến khoảng 10-15%. Trong tự nhiên chim yến hàng có tỷ lệ chết khoảng 15-17%, ở Việt Nam từ 18-22% (Nguyễn Quang Phách, 1999).
5.3. Sinh sản
5.3.1 Chu kỳ sinh sản của chim yến
Thành thục lần đầu sau 7-8 tháng tuổi, đây là thời gian chim sẵn sàng để giao phối. Chim thường xây tổ lần đầu mất 3 tháng, lần 2, 3 chỉ 1 tháng (trong tự nhiên). Thường trong nhà yến chim xây tổ khoảng 30-32 ngày để tạo thành cái tổ có kích thước đủ để đẻ trứng. Sau đó chim dừng khoảng 8-11 ngày mới bắt đầu đẻ quả trứng đầu tiên và 1-3 ngày để đẻ quả trứng thứ 2. Ấp trứng 22-28 ngày. Cả đôi chim bố mẹ cùng làm tổ và nuôi con. Mặc dù chim đẻ 2 quả trứng nhưng có đến 70% tổ, chỉ một trứng được nuôi thành công đến chim con, còn 1 chim khác thường bị hất ra, nhất là ở các tổ nhỏ. Sau khi nở 41-51 ngày chim đã đủ khoẻ mạnh và rời tổ và 7 tháng sau chim sẽ giao phối và sinh sản. Một tuần sau khi chim con rời tổ, đôi chim bố mẹ này có thể bước bào quá trình làm tổ của một chu kỳ sinh sản mới.
Có thể tóm tắt chu kỳ sinh sản trong nhà yến như sau:
30-32 ngày (khoảng 4 tuần) làm tổ
8-10 ngày (1-2 tuần) đẻ trứng
22-28 ngày (3-4 tuần) ấp trứng
47-51 ngày (6-7 tuần) chim con sẽ rời tổ
7 ngày (1 tuần) chim nghỉ ngơi
30-32 ngày (4 tuần) chim làm tổ lại
5.3.2 Số lần làm tổ và đẻ trứng trong năm
Phụ thuộc vào phương pháp thu hoạch tổ, nếu sau khi chim làm xong tổ chuẩn bị đẻ lần đầu, không cho chim ấp nở nuôi con thì chim yến sẽ lập tức làm tổ lại vì vậy chim có thể làm tổ nhiều lần. Trong các nhà có số lượng đàn chim đông, thu hoạch 4 lần là khá phổ biến ở các nước quanh vùng.
Trong tự nhiên: chim chỉ làm tổ và đẻ 2 lần, nếu sau khi đẻ lần 1 để chim tự ấp nở nuôi con thì có thể có 50-60% chim làm tổ và đẻ lại trong lần hai (Phach N.B. et. al. 2002).
Trong nhà yến: nếu để chim tự ấp nở, mỗi năm mỗi cặp chim có thể đẻ 3 lần. Một chu kỳ sinh sản của chim khoảng 3-4 tháng, trong đó: 1-2 thágn xây tổ + 2,5 tháng ấp nở và nuôi chon + thời gian nghỉ. Nhưng xét về quần đàn yến thì chim đẻ rải rác quanh năm, vì các cá thể không bắt đầu sinh sản cùng lúc như trong tự nhiên. Tuy vậy, cũng có những những tháng tỷ lệ chim sinh sản cao hơn các tháng khác và tạo thành một số đỉnh (pic) trong năm (bảng 2).
5.3.3 Mùa vụ sinh sản
Nhìn chung thời gian đẻ trứng phục thuộc từng vùng, điều kiện khí hậu từng năm và có biến động theo vĩ độ của mỗi nướic. Tại Việt Nam, trong tự niên chim làm tổ vào cuối tháng 12 đến tháng 1, đẻ lần 1 vào giữa cuối tháng 3 đến giữa tháng 5 (tuỳ vùng và tùy năm), 70% chim tập trung đẻ vào giữa tháng 4. Nếu bị khai thác lấy tổ thì tiếp tục làm tổ đến khoảng 5-6.
Mùa vụ sinh sản tự nhiên trong hang động của 3 tỉnh: quảng Nam, Bình Định, Khánh Hoà có khác nhau:
• Tại các hang động, thời gian bắt đầu làm tổ của chim yến ở Khánh Hoà và Công Đảo thường sớm hơn ở Bình Định và Quảng Nam (15 đến 20 tháng 12 so với 5 đến 10/12) nhưng chim yến ở Bình Định lại luôn đẻ sớm hơn ở Khánh Hoà khoảng 10-15 ngày. Vì vậy, tại Bình Định khai thác đợt 1 vào 28/3 đến 1/4 (lúc 20-30% trong tổ có trứng); Quảng Nam khai thác vào ngày 5 đến ngày 10/4 (lúc 3-4% trong tổ có trứng), còn Khánh Hoà khai thác vào 10 đến 25/4 (lúc 10% tổ có trứng).
• Đợt 2, Bình Định khai thác vào 15 đến 20/5 (lúc 70-80% tổ có trứng). Quảng Nam: sau đợt 1 chim làm tổ lại trong thời gains 30-40 ngày, đến khoảng 10-20/5 chim bắt đầu đẻ lần 2, tự ấp nở và nuôi con cho đến khoảng 25/7 - 10/8 thì chim non rời tổ (đợt 2 là đợt dưỡng chim). Tại Khánh hoà, một số đảo cũng thu hoạch 2 đợt đó là đợt dưỡng chim và chim bay vào khoảng 10-25/8.
• Đợt 3, Bình Định tiến hành theo quy trình kỹ thuật cách một năm dưỡng chim một lần, nếu khai thác thì cuối tháng 6, nếu dưỡng chim thì khoảng đầu tháng 9 thu hoạch tổ khi chim bay hết. Theo kiểu thu hoạch này sản lượng năm tăng chậm. Những năm liên tục khai thác 3 lần, sản lượng năm saus không tăng.
Kết quả điều tra ở trên cho thấy màu vụ chim bắt đầu làm tổ và sinh sản ở Bình Định, Quảng Nam, Khánh Hoà, Côn Đảo có khác nhau. Điều này liên quan đến khí hậu của từng vùng và điều kiện hang (N.B.Phách, 1999), có thể cả với nguồn thức ăn và khoảng cách hang động vào đất liền (vùng kiếm ăn).
Khai thác 2 lần/năm như ở Quảng Nam chim sẽ khoẻ mạnh, tổ đo đạt 60-70 tổ/kg, trung bình 100 tổ/kg, số lượng cá thể trong quần đàn tăng nhanh nên sản lượng hàng năm tăng 10-20%, trung bình tăng 15%. Tại đây tiến hành thu hoạch tổ khi 3-4% số tổ có trứng, nếu chờ đến 10-15% chim đẻ mới thu hoạch tổ thì trong một số tổ trứng đã được ấp thành chim con, đồng thời có hiện tượng một số chim thải trứng ra ngoài đường sinh dục do tổ đã bị lấy mất và mùa vụ sinh sản bị kéo dài. Các trứng già chưa rơi vào ống dẫn trứng (chưa hình thành màng lụa và vỏ vôi), sẽ tự thoái hoá và tái hấp thu lại cho cơ thể, điều này cũng có lợi cho cơ thể chim. Hiện tượng này không những thấy ở chim mà ở nhiều loại động vật khác khi con người tác động vào chu kỳ sinh sản tự nhiên của chúng.
Trong nhà yến, mùa vụ sinh sản của cả đàn yến kéo dài và có tính chất rải rác quanh năm. Tại Việt Nam, tỷ lệ chim yến đẻ trứng (số tổ có trứng và chim con/tổng số tổ) thường xuyên giao động từ 30-77%, vào tháng 05 tỷ lệ đẻ trứng đạt 60-65%, tháng 11 có nhà yến tỷ lệ đẻ trứng đạt đến 77%. Trung bình số tổ có 02 chim con và 02 trứng là 60-69% vào tháng 11, và 79-88% vào tháng 05 (phương pháp kiểm tra ngẫu nhiên).
So sánh với tư liệu của Malaysia (Bảng 2) ta thấy, lúc nào trong nhà yến cũng có một số yến tham gia sinh sản, khoảng 60-96%. Tuy nhiên, vụ hè từ tháng 04 đến tháng 07 (đợt đẻ thứ 03)tỷ lệ chim sinh sản thấp, trung bình của 04 tháng đạt 59,7%, số trứng đẻ trung bình/đôi chim là 0,77, số chim con nuôi thành công là 0,44 con/đôi, thời gian đẻ trứng lại là 108+- 14 ngày. Trong khi đó từ tháng 8 đến tháng 12, là mùa vụ sinh sản chính hàng năm(đợt đẻ 01) của Malaysia, tỷ lệ sinh sản cao đến 96,1%, số trứng đẻ trung bình/đôi chim là 1,88, số chim con nuôi thành công 1,32 con/đôi, và thời gian đẻ trứng lại là 47+- 10 ngày. Đợt đẻ thứ 02, bắt đầu từ tháng 01 đến tháng 03, tỷ lệ sinh sản93,8%, số trứng trung bình/đôi chim là 1,49 số chim con thành công là 0,97 con/đôi chim bố mẹ. Đây có thể cũng là đặc trưng về sinh sản chim yến ở vùng gần xích đạo.
Như vậy, đặc trưng sinh sản của đàn chim yến Malaysia có những khác biệt so với yến sống ở Việt Nam. Chúng có 03 mùa vụ sinh sản; mùa vụ đẻ trứng lần 01 bắt đầu từ tháng 08 với yến tổ trắng, tháng 09 với yến tổ đen; mùa vụ thứ 02 từ tháng 01 đến tháng 03-04 và mùa vụ thứ 03 vào tháng 04 đến tháng 08. Yến tổ đen thường sinh sản muộn hơn yến tổ trắng 01 tháng. Tỷ lệ đẻ trứng của yến tổ trắng trong mùa thứ 03 (vào mùa hè) thấp nhất chỉ khoảng 60%, số trứng trong ổ trứng và số con nuôi thành công đều thấp, thời gian đẻ trứng lại kéo dài đến 108 ngày.
5.3.4. Sự tăng quần đàn yến
Khuyến cáo các nhà nuôi yến Malaysia là cần thu hoạch các tổ sau khi chim đã bay, nhất là trong những năm đầu lúc đàn yến trong nhà chưa đông.
Nếu thao phương pháp nhân giống này, trung bình mỗi cá thể chim nuôi trong nhà ở Việt Nam trung bình có thể sinh sản khoảng 03 lần/năm cộng thêm một số chim non tham gia sinh sản lần đầu. Ngoài ra, cần tính đến hệ số nuôi con thành công trung bình của 02 mùa vụ đẻ khoảng 1,2-1,3 do có nhiều chim đẻ 02 quả trứng. Theo kết quả tính của Malaysia, dù chim đẻ 02 trứng nhưng hệ số nuôi con thành công ở cả 03 mùa vụ tính trung bình cũng chỉ khoảng 0,9 con. Vì vậy, ước tính số lượng chim trong đàn sau khi nuôi 01 năm chỉ có thể tăng đến 3-4 lần (tối ưu nhất). Nếu lượng chim trong đàn tăng đột xuất đó là chim ở nơi khác kéo đến do điều kiện ngôi nhà thích hợp.
Bảng 02. Sơ đồ mùa vụ sinh sản của chim yến tổ trắng và tổ đen
ở Malaysia
Chim yến tổ trắng ( Aerodramus fuciphagus)
Tỷ lệ sinh sản 93,8% TLSS 59,7% TLSS 96,1%
Số trứng TB/đôi =1,49 STTB/đôi=0,77 STTB/đôi=1,88
Số chim con/đôi=0,97 SCC/đôi=0,44 SCC/đôi=1,32
Ngày đẻ lại=không số liệu NĐTL=108+-14 ngày NĐTL=47+-10 ngày
Tháng
01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Ngày đẻ lại=17+-3 ngày NĐTL=82+-20 ngày NĐTL=19+6 ngày
Số chim con/đôi=0,68 SCC/đôi=0,57 SCC=0,79
Số trứng TB/đôi=1,22 STTB/đôi=0,95 STTB=1,35
Tỷ lệ sinh sản 91,6% TLSS 77,8% TLSS 91,6
Sinh sản đợt thứ 02 Sinh sản đợt thứ 03 Sinh sản đợt thứ nhất
(giữa mùa sinh sản) (mùa rụng lông nhiều) (mùa bắt đầu sinh sản hàng năm)
Chim yến tổ đen (Aerodramus maximus)
Chú thích: 1. Tỷ Lệ Sinh Sản (TLSS); 2. Số trứng đẻ trung bình (STTB)/đôi chim; 3. Số chim con nuôi được(SCC)/đôi; 4. Ngày đẻ trứng lại (NĐTL); Th-Tháng; Đôi-đôi chim bố mẹ.
Hàng dưới của bảng 2, chỉ ra đặc trưng sinh sản của chim yến tổ đen.
Tìm hiểu mùa vụ sinh sản của chim yến hang động giúp người nuôi chim lên kế hoạch về thời gian xây nhà. Cần hoàn thành việc xây dựng trước mùa chim tìm chỗ làm tổ và mùa chim con tìm nơi cư trú vì thạo đường trở về hang động.
5.4.Dinh dưỡng
Chim yến ăn côn trùng có kích thước nhỏ (cỡ 0,01-0,72 gam) bay trong không khí như kiến cánh, ong bắp cày, ong nhỏ, phù du, ruồi muỗi, nhện, các con bọ nhỏ,… Tỷ lệ các loại côn trùng trong thức ăn như sau:bộ cánh màng Hymenoptera-61,1%, bộ cánh đều Isoptera-14,7%, bộ 02 cánh Diptera 7,8%, các bộ còn lại tỷ lệ thấp. Trong bộ cánh màng chỉ gặp họkiến Formicidae, trong bộ cánh đềuchỉ gặp mối, trong bộ hai cánh gặp ruồi, trong cánh giống Homoptera gặp rầy xanh (Cicacellidae) và rầy nâu (Delphacidae). Thức ăn ưa thích là ong kiến chiếm 50-70%, tiếp đến là mối cánh ruồi muỗi, bọ rầy, bọ rùa, chuồn chuồn kim, bọ xít nhỏm, bướm đem, cánh tơ, cào cào,. . .(Nguyễn Quang Phách, 1193,1999).
Chim bắt thức ăn trong khi bay, ở độ cao dưới 30m, theo sự phân bố của côn trùng trong không trung.
Thức ăn cho chim con: thức ăn của chim con đều do bố mẹ bắt về và mớm cho chúng. Thành phần thức ăn khá đa dạng, điều tra tại Khánh Hoà và Đà Nẵng cho thấy chim ăn chủ yếu là côn trùng cánh giống Homoptera (50,7% và 60,8%), hai cánh Diptera (20,7% và 14,8%), cánh màng Hymenoptera (14,2% và 10,9%), nhìn chung chim yến non ăn thức ăn có vỏ kitin mỏng hơn.
Trong nuôi nhân tạo người ta cho chim yến con ăn trứng, nhộng non, ấu trùng, ong kiến non. Trong thời gian đầu cục mồi khoảng 0,6-1g. Thời gian chim non kéo dài 05 tuần, cả hai bố mẹ cùng mớm mồi, quan sát thấy trong thời gian sau cục mồi lớn hơn là 1,5-1,7 gam, khoảng cách thời gian mớm mồi gần nhất là 30 phút. Một tư liệu khác cho biết chim trưởng thành chỉ cho chim con ăn 02 lần ngày một lần ban ngày và một lần vào ban đêm lúc khoảng 08 giờ tối (Malaysia).
Là đối tượng ăn côn trùng trên không chim yến đã góp phần quan trọng trong khống chế số lượng các côn trùng gây hại cho hoa màu.
5.5. Tập tính sống
Chim yến là một loài chim có khả năng nhìn rất tuyệt vời, mũi và tai nghe rất thính. Giác quan của nó rất tốt nên để nhận biết kẻ thù và những nguy hiểm trong môi trường xung quanh nó. Đa số chim sống theo bầy đàn, cũng có những con chim thích bay đơn lẻ, những con chim đơn lẻ này khó dẫn dụ vào nhà hơn.
Chim sống thành cặp, đường bay đi về nơi làm tổ khá ổ định và không thích làm tổ ở độ cao trên 500m so với mặt biển. Tốc độ bay có lúc lên đến 128-160km/giờ (80-100mph), cũng có khi nó bay xa đến 160 km để kiếm mồi. Theo đều tra của Viện Hải Dương Học về đường đi kiếm ăn của chim yến Hàng ở 2 tỉnh Quảng Nam và Khánh Hoà cho thấy, chúng luôn bay theo hướng Tây Bắc vào đất liền kiếm ăn, tuy nhiên với hang có sản lượng lớn nhất của tỉnh Khánh Hoà thì chúng bay vào đất liền theo hướng Tây va Tây Nam là hướng gần bờ nhất (Hình 15). Vùng kiếm ăn có thể thay đổi theo ngày theo mùa.
Chim có đặc điểm lượn quanh vòng với một đường kính tối thiểu là 04m và khó bẽ quặt đường chim bay khi đổi hướng, tối thiểu cần một khoảng rộng 1,52-2,13m (5-7 feet) nên gian phòng chim ở phải rộng, các đường luồng và khe hang phải có kích thước tối thiểu và cũng chính vì vậy chim ít làm tổ ở khu vực giữa phòng. Ngoài ra trong nhà chim không được làm nhiều cột. Nếu có cột cần phải cách nhau 4m (H.52). Trong thực tiễn của nghề nuôi yến,cần tránh việc ép chim thay đổi đường bay, vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đàm yến (Nugroho E.,2000).
Nhiều đàn chim yến sống ở Việt Nam hay bay lượn theo chiều ngược kim đồng hồ hơn là theo chiều ngược lại, vì vậy trong một gian phòng thì chỗ làm tổ tập trung đều tiên là ở góc trái của căn phòng và trên các cạnh cắt ngang đường chim bay. Tổ thường làm thành hàng cách trần độ 2-5cm, có thể tổ nằm rất sát nhau chỉ cách 1 cm (Hình 9) và thành 1 hàng dài. Khi làm tổ theo hàng dọc ở góc tường thì tổ phải cách 8-10cm. Trường hợp số lượng chim trong phòng khá đông , diên tích để chim làm tổ thiếu chim sẽ làm thấp xuống dưới, nhưng bao giờ tổ cũng được làm cách sàn 1-1,5m (Hình 10).Chỗ làm tổ của mội cặp chim khá ổn định, và chim con thường tập làm tổ xung quanh chỗ làm tổ của chim bố mẹ. Trong nuôi yến người ta đã chú ý đến sự phân bố của chim để giảm sự cận huyết.
Diện tích có khả năng làm tổ rất lớn trong những hang động cao, với bề ngang hẹp khoảng 2m. Chim không chỉ làm 1-2 hàng tổ như trong nhà yến mà làm sít nhau hết cả mặt tường và thường hay làm tổ ở mặt tường trái (H.8a). Lý do chính là do chim không làm tổ ở những nơi có phân bám, trong khi đó mỗi khi bay ra khỏi tổ chúng thường thải phân, số phân này đã văng bám lên tường phải.Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào hướng các tia sáng chiếu vào hang, chím thích thú làm tổ ở những vùng tối hơn, khu vực để chim làm tổ có quan hệ với ánh sáng và gió, thường ở chỗ khe khuất ít gió và ánh sáng. Trong các khu vực hang và nhà yến rất cần sự thông thoáng, đối lưu không khí để làm giảm lượng ammonia,nitrate, khí CO2. . .sinh ra từ quá trình trao đổi chất và phân huỷ chất thải hữu cơ.
5.6. Vấn đề bệnh tật của chim
Đã có tư liệu về một số bệnh của chim. Cho đến nay nhiều phát biểu chính thức là loài chim yến này không bị H5N1. Tại một số nước người ta thường xuyên lấy chất thải của chim để kiểm tra H5N1 nhưng đến nay chưa phát hiện thấy có hiện tượng nhiễm bệnh này trên đối tượng chim yến 9http://au.health.yahoo.com). Họ cho rằng chim yến thường xuyên không đậu và ăn côn trùng trên không trung nên khả năng bị bệnh hiếm hơn. Tuy niên họ cũng nhắc nhỡ là chưa khẳng định hoàn toàn chắc chắn chim có bệnh hay không trong trường hợp nhà yến nằm ngay trung tâm phát bệnh H5N1.
Khi nuôi chim con, thường gặp bệnh sình bụng. Cách sử lý quan trọng nhất là phòng bệnh hơn chữa bệnh, khử trùng, giữ gìn vệ sinh từ khâu kỹ thuật. Ngoài ra cần bổ sung thêm vitamin, khoáng chất,…để tăng cường sức đề kháng của chim con.
5.7. Thành phần hoá học cơ bản của tổ yến
Tổ yến trắng được làm bằng nước bọt của chim, nó bị đông cứng lại sau khi tiếp xúc với không khí. Là một vật chất hữu cơ thiên nhiên và hầu như là một dạng tươi tự nhiên và dễ hấp thụ.
Người ta cho rằng tổ yến là một loại thuốc bổ cung cấp thêm năng lượng cuộc sống, tăng cường trao đổi chất, cải thiện sự tiêu hoá và hấp thu dinh dưỡng, có tác dụng dưỡng da làm da đẹp hơn và cải thiện tình trạng của tóc. Ăn tổ yến liên tục sau một thời gian sẽ giữ cho cơ thể trẻ, khoẻ không bị bệnh, nhờ đó cải thiện sức khoẻ kéo dài tuổi thọ. Tổ yến cũng có tác dụng nâng cao hoạt động sinh dục, có tác dụng bổ phổi, làm ẩm ướt đường hô hấp, giúp cải thiện tình trạng các bệnh hen suyển, lên đờm quá mức trong phổi và cổ họng, chống ho, nhổ ra máu và chiều hướng bị bệnh lao phổi; cũng tốt cho tim và sự tuần hoàn máu.
Sử dụng tổ yến trong thời gian mang thai làm tăng sức khoẻ của mẹ và con. Phụ nữ dùng súp yến sau khi sinh con sẽ nhanh chóng mảnh mai thon thả hơn, giữa gìn được sắc đẹp của mình. Chức năng của dạ dày và lách của trẻ em nhỏ tuổi còn yếu ớt, dễ bị ỉa chảy và lười ăn, cho trẻ em ăn súp tổ yến hoà trong sữa có thể cải thiện bổ sung sự thiếu hụt dinh dưỡng. Trẻ em lớn hơn có thể cho ăn cháo bột, bột gạo hoà với tổ yến. Nhìn chung dùng tổ yến cũng có thể giúp cho trẻ khoẻ mạnh và tăng trưởng (www.charliesbirdblog.com). Tổ yến có thể dùng cho các nhóm tuổi khác nhau và cả nam và nữ.
Ăn tổ yến giúp phục hồi sức khỏe của các bệnh nhân sau phẫu thuật và sau khi bị bệnh tật đã được đề cập trong nhiều tài liệu. Đặc biệt là tăng cường hệ thống miễn dịch và chức năng của hệ nội tiết. Gần đây người ta cho rằng tổ yến giúp hạn chế sự phát triển của bệnh AIDS qua con đường kích hoạt sự phân chia tế bào trong hệ thống miễn dịch. Nhiều người cũng tin rằng tổ yến có 1 yếu tố gì đó giúp điều trị bệnh ung thư.
Thành phần hoá học của tổ yến quyết định tác dụng của tổ yến đến sức khỏe của con người.
Theo phân tích của Departemen Perdagangan R. I, 1979 (Indonesia).
Cứ 100g tổ yến chứa:
Calori : 281 Kcal
Protein : 37,5 gam
Lipit : 0,3g
Cacbon hydrat : 32,1g
Canxi : 485 mg
Photpho : 18 mg
Sắt : 3 mg
Nước : 24,8 g
Số liệu phân tích tổ yến hang động Việt Nam (Phach N. Q. Et al., 2002)cho thấy, hàm lượng protein và lipit có khác nhau theo loại tổ và kỳ khai thác. Hàm lượng protein trong kỳ lhai thác lần đầu là 47,16%, lần hai là 36,9%, lipit lần đầu là 0%, lần 2 là 0,56%. Các số liệu trên cho thấy, hàm lượng canxi và phót photrong tổ yến rất cao, nguyên tố sắt cũng khá cao. So sánh với tài liệu đã công bố của Indonesia, thì tổ yến của Khánh Hoà có chất lượng rất tốt, hàm lượng protein cao (36,9-47,1%), hàm lượng lipit rất thấp chỉ từ 0-0,56%, lượng nước thấp chỉ khoảng 16% (so với Indonesia là 24,8%).
Nghiên cứu mới đây, về giá trị dinh dưỡng của tổ yến như sau: Cứ 100 gam tổ yến khô có chứa 49,9 gam protein hoà tan trong nước (bao gồm amido nitrogen, monoamine nitrogen, non-amino nitrogen); có 18 acit amin cần thiết như arginine, histidine, lysine, cystine, tryptophan, serine, leucine, proline, threonine, glutamic acid,...; 30,6g carbohydrate (ở dạng glycorotein và mucin) trong đó có galactose, hexose, glucosamine, galactosamine, sialic acid,...; 4,9g sắt, 2,5g muối vô cơ (bao gồm potassium, sodium, calcium, magnesium, sulfur, phosphorus, cilica, và các nguyên tố khác), 1,4g chất xơ, 10,7g các loại khác. Giá trị năng lượng dinh dưỡng 345kcal (nguồn tư liệu: Dictionary of Traditional Chinese Medicine, The History of Chinese medicine; Kathan & Weeks, 1969; Houdret, Lhermitte el al. 1975).
6. Làm sao để nhận biết tổ chim yến thật và giả.
• Chim yến làm tổ từ nước bọt, tạo ra thành các sợi, các sợi này có thể rời ra khi ngâm vào trong nước khoảng 30-40 phút, với chiều dài và kích thước khác nhau. Các sợi yến giả thì luôn có vẻ hoàn hảo thậm chí màu trắng cũng không thật.
• Tổ yến thật sẽ không mềm tan ra trong nước khi đun trên 2 giờ. Các loại tổ giả làm từ rong biển, bột hoặc chất thay thế nào đó thì không những tan ra mà còn bốc hơi và biến mất sau chưa đầy 1 giờ.
• Tổ yến thật loại chất lượng cao có thể dãn phồng lên gấp 2 lần kích thước bình thường của sợi sau khi ngâm nước và đun.
• Tổ yến thật chứa protein tự nhiên, toả ra hương vị riêng của nó không giống mùi thơm điển hình của tinh dầu thực phẩm.
• Tổ yến đỏ và vàng giả có màu óng ánh có thể do cho thêm 1 lượng nhỏ thuốc nhuộm. Thuốc nhuộm này để hoà tan và ra màu trong nước khi đun sôi tổ yến.
Kỹ thuật chế biến tổ yến
• Ngâm tổ yến ngập trong nước khoảng 02 giờ, cho tới khi nó rã ra, tách rời chúng thành từng sợi. Nhặt sạch lông trong tổ với pince cặp. Bước này được làm cho tới khi tất cả lông trong tổ yến nhặt hết.
• Cho các sợi yến đóng vào các khuôn theo tiêu chuẩn để xuất đi Hong Kong là 6gam/ổ. Cuối cùng sấy khô các sợi đã đóng khuôn này bằng quạt thổi khí.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét